NGÀI A-NAN-ĐÀ
I-Ý NGHĨA TÊN NGÀI:
Tiếng Phạn là A-Nan-Đà dịch là Khánh Hỷ nghĩa là vui mừng vì:
a-Ngài sinh ra gặp ngày Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thành đạo, ngày vui mừng nhất của nhân loại.
b-Ngài là con Hộc-Phạn Vương, em vua Tịnh Phạn. Vua Hộc-Phạn rất rộng lượng nhân từ, nên khi sanh được con trai, cả nước cùng chung vui với nhà vua, Ngài là em họ Đức Phật, được làm thị giả. Trong những lời thuyết pháp, có phần dự thính của Ngài rất nhiều. Khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài cũng hầu hạ một bên.
II-TIỀN THÂN CỦA NGÀI:
Kinh Lăng Nghiêm chép: Ở một kiếp quá khứ thời Đức Phật Không Vương, Ngài cùng với Đức Phật Thích ca Mâu ni làm thiện hữu, cùng phát bồ đề, tu các pháp hạnh. Nhưng Ngài quá chuộng đa văn, không chuyên hành đạo, Còn Đức Phật Thích ca thì luôn luôn tinh tấn tu hành. Do nhơn duyên kiếp trước, nên đời nay, ngài sinh vào dòng họ Thích, làm anh em thúc bá với Phật. Lúc 25 tuổi, Ngài xuất gia (25 năm sau khi Đức Phật thành đạo) hầu hạ Đức Phật và thọ trì chánh pháp..
III-CÔNG HẠNH CỦA NGÀI
1-Vì kiếp trước, Ngài thiên trọng trau dồi trí huệ, nên đời này được trí huệ sáng suốt hiểu nhớ cùng khắp. Ngài được tôn xưng là đa văn đệ nhất trong hàng đệ tử Phật.
2-Riêng đối với Phụ nữ, Ngài có công rất lớn, nhờ Ngài nài xin, Đức Phật mới cho hàng phụ nữ xuất gia tu đạo. Cho nên trong kinh Niết bàn, Phật dạy đến ngày mồng 8 tháng chạp (ngày sinh của Ngài A Nan), hàng nữ Phật tử phải tận tâm cúng dường đảnh lễ Ngài để đảnh lễ hồng ân ấy.
3-Ngài là vị tổ thứ hai tiếp nối Đức Ca Diếp, Ngài đứng hầu bên tay phải của Đức Phật.
4-Sau khi Đức Phật diệt độ, trong thời kỳ kiết tập lần thứ nhất, Ngài vâng lệnh chúng tăng, đọc lại những lời dạy của Đức Phật mà Ngài được nghe và ghi nhớ. Căn cứ vào những lời đọc lại ấy, chúng tăng chép lại và sưu tầm kết tập thành kinh tạng. Trong các kinh, chúng ta thường thấy câu: ‘Như thị ngã văn” (tôi nghe như vầy) là biểu ý tất cả các bộ kinh đều do Ngài A Nan nghe Đức Phật dạy, và chỉ đọc lại mong chánh pháp lưu thông, chứ không phải là những ức đoán sai lầm như kinh điển ngoại đạo.
IV- LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ:
Công ơn của Ngài đối với hậu thế lớn nhất là sự kết kết tập kinh tạng, kinh điển mà Phật tử luôn ghớ công ơn. Riêng hàng Ni chúng và nữ tu tại gia luôn tôn thờ và cảm niệm ơn đức Ngài đã xinh với Đức Phật cho Phái Nữ lưu xuất gia. Tượng Ngài đứng bên tay mặt Đức Phật Thích ca, cón Ngài Ca-Diếp thì đứng bên tay phải Đức Phật.
Các chùa sư nữ thường hay thờ kính tượng Ngài.