NGÀI MA–HA CA-DIẾP
I-Ý NGHĨA TÊN NGÀI:
Tiếng Phạn là Ma-Ha Ca-Diếp, hay Ca Diếp Ba, dịch là Âm Quang, do công đức thếp tượng trong một đời trước, thân ngài được chói sáng sắc vàng, làm mờ các sắc khác, nên gọi là Âm Quang. Ngài là vị tổ đầu tiên được Đức Phật truyền y bát, nối truyền giáo pháp, nên cũng gọi ngài là vị tổ sư thứ nhất.
II-THÂN THẾ CỦA NGÀI:
Ngài sanh nước Ma-Kiệt-Đà, dòng Bà-La-Môn, một chủng tộc có quyền thế ở Ấn Độ. Phụ thân ngài là Ẩm Trạch, mẫu thân là Hương Chí. Ngài rất giàu nhưng Ngài không tham trước những sung sướng về vật chất dục vọng. Bị ép lập gia đình với một người đàn bà đẹp ở thành Tỳ-Xá-Lỵ. Ngài rất sung sướng được thầy vợ Ngài cũng đồng một niệm ly dục như Ngài, và 2 người chung sống với nhau hơn 12 năm, nhưng thân tâm vẫn thanh tịnh. Sau, hai người đều đi tu, và Ngài Ma-Ha Ca-Diếp đến thọ giáo làm đệ tử Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
III-CÔNG HẠNH CỦA NGÀI VÀ LÒNG QUY NGƯỠNG CỦA PHẬT TỬ:
Ngài tu theo hạnh đầu đà. Lúc già yếu, Ngài cũng không thối chuyển, trái lại còn siêng tu bội phần, Đức Phật tán thán khích lệ rằng: “Có hạnh đầu đà, pháp ta mới trường tồn ( Đầu đà có nghĩa là phủi rũ sự tham trước ba món: ăn, mặc, ngủ). Ngài được tôn là Đầu đà bậc nhật, thường đứng hầu bên tay trái Đức Phật, và tượng trưng hạnh ly dục của Đạo Phật.
Sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, ngài hội họp tăng chúng, gồm các vị Đại đức thông hiểu kinh luật, tại Nước Ma-Kiệt-Đà, thành Vương Xá, nước Kỳ Xà Quật để kiết tập Kinh. Luật, Luận. Hội nghị này là lần kiết tập đầu tiên, sau khi Đức Phật nhập diệt. Ngài là vị Tổ sư thứ nhất được Đức Phật truyền y bát, cầm đầu tăng chúng và truyền bá giáo pháp. Ngài lại tượng trương hạnh ly dục hoàn toàn của Đạo Phật.
Vậy nên hàng Phật Tử chúng ta luôn luôn ghi ân và nhớ ơn Ngài, bằng cách đảnh lễ tán thán Ngài, tu học truyền bá hành Pháp và tập sống theo hạnh ly dục thanh tịnh của mình.